Người Viết : ViKiMi Editor

Cố đô Huế điểm đến của du lịch bốn phương
Kinh Thành Huế Nét Văn Hoá Của Thời Gian
Nhắc đến Huế là cho chúng ta nhớ đến vẻ đẹp thời gian còn lưu giữ mãi một thời văn hoá phong kiến của Việt Nam. Kinh thành Huế chính là kinh đô của triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam. Triều đại của sự cai trị nhà Nguyễn với nhiều thay đổi vàng son trong lịch sử dân tộc, đánh dấu nhiều phát triển, đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc. Kinh thành Huế cùng với sự phát triển huy hoàng cũng như nhiều biến động trong suốt 140 năm cai trị của nhà Nguyễn từ 1805 đến 1945. Sự biến đổi từ thời phong kiến tới xã hội hiện đại ngày nay, một kinh thành với dấu tích chiến tranh và sự cố gắng phát triển canh tân của triều đại phong kiến. Do đó kinh thành Huế chứa trong mình vẻ đẹp của một thời rực rỡ huy hoàng nhất, cùng cuộc chiến chống đế quốc thực dân bảo về kinh đô đầu não của nhà Nguyễn.
Kinh thành Huế là một trong số các di tích thuộc cụm Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di Sản Văn Hoá Thế Giới. Kinh thành Huế cũng là nơi thường xuyên tổ chức dịp Festival Huế thường kì, đặc biệt trong năm nay 2022.
Kinh thành Huế biểu tượng của quyền lực Vương Triều nhà Nguyễn. Kinh thành Huế với kiến trúc kiên cố phòng thủ và là đầu não của nhà Nguyễn. Hoàng Thành là vòng thành thứ 2 của Kinh thành Huế, đây là nơi trước kia chỉ có sự xuất hiện của Vua triều Nguyễn, Hoàng Hậu và các phi tần, nơi đại diện cho uy quyền của vị Vua. Hoàng thành còn là nơi bảo vệ các cung điện quan trọng của nhà Nguyễn, các miếu thờ tông thất của nhà Nguyễn, bảo vệ Tử Cấm Thành.
Hiện nay tất cả nơi này đều mở của cho khách thăm quan phục vụ cho du lịch. Cả Hoàng thành và tử cấm thành đều gọi chung là Đại Nội. Hoàng Thành được xây dựng năm 1804, nhưng mãi đến năm 1833 đời vua Minh Mạng mới hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống.

Lịch sử Kinh thành Huế
Kinh thành Huế bắt đầu được xây dựng từ mùa hè năm 1805, dưới thời vua Gia Long. Trước đó, từ năm 1803 việc quy hoạch kinh thành đã được diễn ra. Toàn bộ quá trình khảo sát thực địa do chính vua Gia Long và các đại thần triều Nguyễn đảm nhận.
So với cố đô thành Phú Xuân, Kinh thành Huế xưa được mở rộng hơn rất nhiều. Đợt thi công vào năm 1805, triều đình phải huy động khoảng 30 nghìn dân và lính phục vụ cho việc ngăn sông, đào hào. 10 cửa xung quanh kinh thành bắt đầu được xây dựng từ năm 1809.
Đến năm 1818, số người huy động xây dựng thành lên đến 80 nghìn người, tập trung xây gạch ốp ở 4 mặt Đông – Tây – Nam – Bắc. Đến năm 1831-1832, vua Minh Mạng cho xây dựng thêm tường bắn ở mặt ngoài của vòng thành, hoàn thiện kiến trúc của kinh thành.

Kinh thành Huế xây dựng theo cách kiến trúc phong thuỷ của thời kỳ trước hiện đại. Chọn núi Ngự Bình làm tiền án, với 2 đảo nhỏ trên sông Hương là Cồn Hến và Dã Viên làm 2 yếu tố rồng chầu hổ phục ( Tả thanh long, hữu bạch hổ ) để bảo vệ phong thuỷ của kinh thành.
Kinh thành Huế có tất cả 13 cửa thành. Trong đó, 10 cửa thành sẽ thông ra bên ngoài, 1 cửa thành nội bộ, 2 cửa thành đường thủy.
1- Cửa Đông Nam (cửa Thượng Tứ)
Cửa thành nằm góc Đông của Đông Nam Kinh Thành. Vòm cửa được xây dựng từ năm 1809, vọng lâu xây năm 1829. Triều đình nhà Nguyễn lập Viện Thượng Tứ chuyên trông coi ngựa cho vua ở đây nơi cửa thành gọi là cửa Thượng Tứ.
2- Cửa Thể Nhơn (cửa Ngăn)
Cửa thành nằm ở phía Nam, bên trái Kỳ Đài của Kinh thành. Vòm cửa được xây dựng từ năm 1809, vọng lâu được xây năm 1829. Tên lúc đầu là Thể Nguyên, sau vua Minh Mạng đổi thành Thể Nhơn. Dân gian gọi là cửa Ngăn do dân bị ngăn lại tại đây khi vua hoặc cung phi đi ra Phu Văn Lâu hoặc nhà Lương Tạ để hóng mát, tắm sông. Cửa đặt 4 khẩu súng thần công gọi là Tả đại Tướng quân.
3- Cửa Quảng Đức (cửa Sập)
Cửa nằm ở phía Nam của kinh thành. Tên được đặt theo chữ dinh Quảng Đức. Vòm cửa thành được xây dựng năm 1809, vọng lâu được xây năm 1829. Trong trận lụt năm 1953, cả vòm và vọng lâu đều sụp hoàn toàn nên dân gọi là cửa Sập. Cửa được phục chế lại năm 1988 sau thời gian bị chiến sự năm 1968 phá hoại nặng nề. Cửa đặt 5 khẩu súng thần công gọi là Hữu đại tướng quân.
4- Cửa Chánh Nam (cửa Nhà Đồ)
Cửa cũng nằm ở phía Nam của kinh thành. Dân gian thường gọi là cửa Nhà Đồ do bên ngoài cửa có cục Thượng Ty (Đồ Gia), dịch ra là Nhà Đồ. Vòm cửa được xây dựng năm 1809, vọng lâu được xây năm 1829. Cửa bị sụp năm 1953 do lũ lụt, sau này mới được phục dựng lại.
5- Cửa Tây Nam (cửa Hữu)
Cửa nằm ở phía Tây Nam của kinh thành. Vòm cửa xây dựng năm 1809, vọng lây xây năm 1829. Năm 1885, vua Hàm Nghi xuất thành ra chiến khu ngoài Quảng Trị từ cửa này. Trong chiến tranh cửa thành bị sập và sau này mới được phục dựng lại.
6- Cửa Chánh Tây
Cửa nằm ở phía Tây của kinh thành, trên đường Thái Phiên. Vòm cửa được xây dựng năm 1809, vọng lâu xây năm 1829. Đây là nơi giao tranh ác liệt trong chiến sự năm 1968 nên bị tàn phá nặng nề. Sau này, cửa đã được phục hồi.
7- Cửa Tây Bắc (cửa An Hòa)
Cửa nằm ở góc Tây Bắc của kinh thành nối đường Tăng Bạt Hổ và Nguyễn Trãi. Vòm cửa được xây dựng năm 1809, vọng lâu được xây dựng năm 1831. Dân gian gọi là cửa An Hòa vì trước cửa thành là làng và chợ An Hòa.
8- Cửa Chánh Bắc (cửa Hậu)
Cửa nằm ở mặt sau của kinh thành nên được gọi là cửa Hậu. Vòm cửa được xây dựng năm 1809, vọng lâu xây năm 1831. Sau chiến tranh, cửa bị tàn phá nặng nề và bị đóng kín suốt 120 năm. Năm 2004 cửa được khai thông sau khi thi công sửa chữa.
9- Cửa Đông Bắc (cửa Kẻ Trài)
Cửa nằm ở góc Đông Bắc của kinh thành, tọa lạc bên bờ sông Đông Ba. Vòm cửa xây dựng năm 1809, vọng lâu xây năm 1824 và là một trong 2 cửa được xây dựng vọng lâu sớm nhất. Dân bản địa gọi là cửa Kẻ Trài do có xưa có xóm Kẻ Trài trước cửa thành.
10- Cửa Chánh Đông (cửa Đông Ba)
Cửa thành ở phía chính Đông. Dân còn gọi là cửa Đông Ba do có pháo đài Đông Hoa từ thời Gia Long. Vòm cửa được xây dựng năm 1809, vọng lâu xây năm 1824. Năm 1885, chiến sự giữa Pháp và quân Triều đình do Tôn Thất Thuyết chỉ huy diễn ra ác liệt tại đây. Cửa bị sập phần vọng lâu và hư hại cửa vòm sau chiến sự năm 1968.
11- Trấn Bình Môn
Cửa này không thông ra ngoài mà dẫn đến Trấn Bình đài – pháo đài phòng thủ của kinh thành, nối 2 pháo đài Đông Bình và Bắc Định với nhau.
12- Tây thành thủy quan
Cửa dẫn nước từ sông Kẻ Vạn vào sông Ngự Hà đảm nhận nhiệm vụ thoát nước nội thành, là đường thủy để các ghe thuyền chở hàng về kinh thương. Cửa được xây dựng năm 1826 dưới thời vua Minh Mạng.
13- Đông thành thủy quan
Đây là cửa dẫn nước từ Ngự Hà đổ ra sông Đông Ba. Cửa được xây dựng năm 1830 dưới thời vua Minh Mạng.
Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế được thành lập vào năm 1923 ở ngay trong thành Nội. Tại đây, du khách sẽ có cơ hội được chiêm ngưỡng rất nhiều món đồ gốm, sứ, đồng, đá, sừng… có giá trị lịch sử được trưng bày. Vết tích thời gian in dấu lại trên bảo vật giúp bạn hiểu hơn về lối kiến trúc, nghệ thuật thời phong kiến.
Những điều cần biết khi tham quan Kinh thành Huế
Di chuyển đến Kinh thành Huế bằng cách nào
Với lữ khách thập phương bạn có thể chọn cách di chuyển dễ dàng bằng đường hàng không đến sân bay Phú Bài Huể.
Từ sân bay Tân Sơn Nhất – Thành phố Hồ Chí Minh đến sân bay Phú Bài (Huế) chỉ mất 30 phút.
Từ sân bay Nội Bài- Hà Nội đến sân bay Phú Bài Huế chỉ mất 1 giờ đồng hồ.
Từ cảng hàng không Phú Bài bạn có thể chọn phương tiện Taxi cho chuyến hành trình tới nội thành Huế.
Giờ mở cửa Kinh Thành Huế
Kinh thành Huế mở cửa từ 7h – 17h hàng ngày. Tuỳ theo thời gian của mùa đông và mùa hè thì thời gian mở của cũng có thay đổi để phù hợp cho Du Khách. Các bạn có thể chủ động để thăm quan và nghỉ ngơi phù hợp nhất cho kế hoạch.
Giá vé vào Kinh thành Huế bao nhiêu?
Người lớn là 150 nghìn đồng/lượt. Trẻ em từ 6 đến 12 tuổi được áp dụng mức giá 30 nghìn đồng/lượt.
– CÁC ĐIỂM ĐẾN ĐÁNG CHÚ Ý CỦA KINH THÀNH HUẾ –
Cổng Ngọ Môn

Điện Thái Hòa

Với 197 bài thơ được thảo theo lối nhất thi nhất họa là một trong nhiều điểm thu hút của điện Thái Hòa.
Duyệt Thị Đường
Nơi đây đã từng là một nhà hát dành cho vua, hoàng thân quốc thích, các quan đại thần của kinh thành Huế đến xem diễn tuồng. Ngày nay, Duyệt Thị Đường trở thành nơi biểu diễn Nhã nhạc Cung đình Huế cho du khách tham quan thưởng thức.

Nhà hát này tọa lạc bên trái trong phạm vi Tử Cấm thành
Kỳ Đài – Biểu tượng trung tâm của cố đô Huế

Chùa Thiên Mụ
Chùa Thiên Mụ có kiến trúc đặc biệt và được xem là một trong những chùa trấn quốc tại Việt Nam, có vị trí cách đại nội 5km về phía tây. Tại chùa có tháp Phước Duyên có 7 tầng, mỗi tầng thờ một vị Phật riêng.

Điện Long An
Điện Long An được xây dựng vào năm 1845. Đây là nơi khi Vua triều Nguyễn nghỉ ngơi sau mỗi lễ Tịch Điền trong dịp đầu năm cầu cho một năm nông nghiệp thuận hoà. Tại đây, hiện nay vẫn lưu giữ rất nhiều báu vật của triều Nguyễn, cũng là nơi được nhiều du khách ghé thăm.

Đàn Nam Giao


Phường Trường An, TP. Huế, Thừa Thiên Huế, cách Đại Nội Huế 5km về phía Tây
Bản đồ lăng tẩm Huế

Ngoài ra, bạn còn có thể quan tâm đến điểm khá nổi bật tạo nên một phong cách mới trong văn hoá TP Huế là Phố đi bộ Phạm Ngũ Lão được mở cửa vào tối thứ 6, thứ 7, Chủ nhật từ 18h. Và phố đi bộ Nguyễn Đình Chiểu được mở các ngày trong tuần từ 16h đến 22h, Chủ nhật sẽ được mở của cả ngày.